Tình hình doanh nghiệp Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025: Khả quan nhưng nhiều thách thức

07/07/2025 14:57


Trong 6 tháng đầu năm 2025, bức tranh doanh nghiệp Việt Nam cho thấy nhiều tín hiệu tích cực, thể hiện xu hướng phục hồi và tăng trưởng sau giai đoạn đầy biến động những năm trước. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động tăng mạnh, tổng vốn đăng ký vào nền kinh tế được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm đạt được, vẫn còn không ít khó khăn khi số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường vẫn ở mức cao, chi phí đầu vào tăng, tiếp cận vốn còn nhiều rào cản.

Những kết quả tích cực đạt được 

Trong 6 tháng đầu năm 2025, nhiều doanh nghiệp thành lập mới và quay lại hoạt động, cùng với sự tăng trưởng lợi nhuận sau thuế ấn tượng tại nhiều doanh nghiệp. Cụ thể: Cả nước có trên 91.000 doanh nghiệp mới thành lập, tăng trên 11% so với cùng kỳ năm 2024, cho thấy làn sóng khởi nghiệp đang hết sức mạnh mẽ. Cùng với doanh nghiệp thành lập mới, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong tháng 6/2025 đạt trên 14.000 doanh nghiệp, tăng trên 91% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng năm 2025, cả nước có trên 61.000 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng trên 57% so với cùng kỳ. Đây là lần đầu tiên số doanh nghiệp gia nhập thị trường và tái gia nhập thị trường cao hơn 1,2 lần so với số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Những số liệu tích cực trên cho thấy niềm tin của doanh nghiệp vào chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà nước, đặc biệt ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân, Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 với nhiều cơ chế, chính sách đặc biệt để phát triển kinh tế tư nhân. Sau khi triển khai thực hiện đã đạt được kết quả tích cực: Vốn đăng ký và vốn bổ sung của các doanh nghiệp tăng mạnh trong 6 tháng đầu năm 2025: Tổng số vốn đăng ký gần 820,9 nghìn tỷ đồng, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2025 là hơn 2.778 nghìn tỷ đồng, tăng 89% so với cùng kỳ năm 2024[1]. 

 Tin 7.7.25

Cận cảnh hoạt động sản xuất của doanh nghiệp (Nguồn: Báo Điện tử Chính phủ)

Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức 

Bên cạnh những kết quả đạt được, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng bởi biến động của kinh tế thế giới, đặc biệt trước các chính sách kinh tế khó lường của Hoa Kỳ và phản ứng của các nước. 

Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường vẫn lớn: Trong 6 tháng đầu năm 2025, có 127,2 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường; so với mức gia nhập và tái hoạt động, sự chênh lệch dù có lợi về số lượng nhưng vẫn cho thấy nhiều doanh nghiệp bị áp lực phải tạm ngưng hoặc giải thể. Tính chung trong 6 tháng đầu năm nay, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là hơn 80,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 13,3% so với cùng kỳ; hơn 34 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 18,3% so với cùng kỳ; hơn 12,3 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 23,3% so với cùng kỳ. Bình quân một tháng có gần 21,2 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 6 tháng đầu năm 2025 đạt 9 tỷ đồng, giảm 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy vốn bình quân doanh nghiệp mới thấp hơn kỳ vọng, cho thấy nhiều doanh nghiệp nhỏ được thành lập hoặc doanh nghiệp có quy mô vốn khiêm tốn gặp nhiều khó khăn trong công tác tiếp cận vốn.

Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng phải đối diện với áp lực tăng cạnh tranh và nhu cầu đổi mới công nghệ, thiết bị, máy móc sản xuất cũ, khó tiếp cận tài chính xanh, trong khi tăng chi phí đầu vào, nhất là lãi suất, tiền lương, logistics. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa phụ thuộc vào vốn tín dụng, nhưng đa phần là tín dụng ngắn hạn và khó đáp ứng được quy trình, thủ tục, luồng tiếp cận vốn.

Vấn đề về thể chế, thủ tục hành chính: Rào cản liên quan tới thủ tục giấy tờ, quy định liên quan đến thuế, hải quan, đầu tư, đặc biệt ở các cấp địa phương vẫn diễn ra. Các quy định của pháp luật hiện đã có những thay đổi theo hướng tích cực, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, tuy nhiên vẫn chưa thể tháo gỡ hết những khó khăn về pháp lý cho doanh nghiệp, đặc biệt chưa tạo động lực khuyến khích các hộ kinh doanh, hợp tác xã tiến tới mở rộng quy mô và chuyển sang hình thức doanh nghiệp.

Một số giải pháp trong thời gian tới

Trong bối cảnh kinh tế thế giới đầy biến động, còn nhiều yếu tố bất ổn và khó lường hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được dự báo tiếp tục khó khăn cả về đầu vào và đầu ra. Một số giải pháp đặt ra trong thời gian tới như sau:

Một là, tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, thể chế và thủ tục hành chính để củng cố niềm tin, tạo thêm động lực cho doanh nghiệp; góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế. Điều này đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ, thực chất và quyết liệt hơn nữa của các bộ, cơ quan, địa phương. Cần xác định cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên; nỗ lực thực chất để tháo gỡ khó khăn, khơi thông các điểm nghẽn về thể chế pháp lý và thực thi cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng xây dựng chính sách, pháp luật; trong đó tập trung vào tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế. Sửa đổi đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm các quy định, thủ tục hành chính đơn giản, giảm gánh nặng tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp. Quy trình lấy ý kiến cần thực chất; tham vấn rộng rãi các đối tượng chịu tác động; và tổ chức đối thoại công khai. Nâng cao chất lượng thực thi văn bản pháp luật; giải quyết thủ tục hành chính bảo đảm đúng thời hạn và không đặt thêm các yêu cầu, điều kiện đối với doanh nghiệp.

Hai là, tăng cường hỗ trợ tiếp cận vốn, tín dụng và đầu tư. Đối với nhà nước và các cơ quan liên quan, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV; giảm bớt các quy định, giấy phép, các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thông thoáng cho DNNVV hoạt động; phối hợp các bộ, ngành trong triển khai các chính sách hỗ trợ DNNVV, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn thông qua Quỹ Phát triển DNNVV, Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV tại địa phương. Khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới hoạt động ở những nơi chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, các khu vực nông thôn hoặc triển khai thông qua các tổ chức tài chính nhỏ, các đối tác địa phương. Bên cạnh đó, để tăng cơ hội tiếp cận với gói chính sách hỗ trợ của nhà nước, các doanh nghiệp cần chú trọng trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh, theo dõi sát các biến động thị trường để có thể điều chỉnh phương án sản xuất, kinh doanh kịp thời. Doanh nghiệp cũng cần chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của nhà nước về công tác tài chính, kế toán, duy trì các báo cáo tài chính rõ ràng, chính xác và đầy đủ, thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm, cung cấp thông tin báo cáo chính xác và kịp thời cho các tổ chức tín dụng khi có yêu cầu. Mặc dù vay tín chấp đang dần phổ biến, song doanh nghiệp vẫn cần có tài sản bảo đảm để nâng cao khả năng được vay vốn; doanh nghiệp cũng cần duy trì lịch sử tín dụng tốt, thanh toán nợ vay đúng hạn và có kế hoạch tài chính rõ ràng, điều này giúp doanh nghiệp xây dựng uy tín và tăng cường khả năng vay vốn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần thường xuyên nâng cao trình độ quản trị điều hành doanh nghiệp, quản lý tài chính, cập nhật thông tin thị trường và đổi mới công nghệ.

Ba là, tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, thực hiện chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo. Để nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường, doanh nghiệp cần cập nhật công nghệ, chuyển đổi số, đảm bảo được vị thế cạnh tranh đang có của doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp, tạo ra cơ hội kinh doanh mới. Cùng với đó, cần nâng cao năng suất lao động thông qua đổi mới công nghệ và tự động hóa, đầu tư máy móc, dây chuyền hiện đại để giảm thời gian, tăng độ chính xác, ứng dụng công nghệ số như AI, IoT, RPA… để quản lý sản xuất, kho bãi, bán hàng; Thiết kế lại quy trình làm việc, loại bỏ các khâu trùng lặp, giảm thủ tục không cần thiết; Thường xuyên đào tạo nâng cao tay nghề, kỹ năng chuyên môn, kỹ năng số, kỹ năng quản lý để đáp ứng yêu cầu công việc ngày càng cao.

Bốn là, mở rộng thị trường và đa dạng hóa xuất khẩu. Để hỗ trợ doanh nghiệp, Chính phủ cần chỉ đạo các cơ quan ngoại giao và cơ quan thương vụ ở nước ngoài tích cực hoạt động mở rộng thị trường, phát triển hoạt động thương mại hàng hóa Việt Nam với các đối tác mới, giúp doanh nghiệp tìm kiếm thị trường mới, giảm bớt phụ thuộc vào một số thị trường lớn, rủi ro thuế quan. Tăng cường quảng bá sản phẩm Việt Nam, cải thiện chất lượng, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Khuyến khích doanh nghiệp tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao nội địa hóa, liên kết vùng. Trong điều kiện cầu về tiêu dùng thế giới suy giảm, các doanh nghiệp cần vừa duy trì quan hệ thương mại với các thị trường đã khai thác, vừa chủ động tìm kiếm thị trường mới; tận dụng các cam kết trong các Hiệp định FTA đã ký kết và thông qua các chuỗi giá trị toàn cầu để tìm kiếm thị trường mới, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nhập khẩu. Đồng thời, các doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ của mạng lưới các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài để tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu thị trường, nắm vững quy định pháp luật của nước sở tại để có chiến lược sản xuất kinh doanh, tiếp cận thị trường phù hợp và hiệu quả. 

CN. Nghiêm Xuân Châu Anh 

Tài liệu tham khảo

1. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội Quý II và 6 tháng đầu năm 2025

2. Cục Thống kê, Báo cáo số 211/BC-CTK ngày 05/7/2025, Tình hình kinh tế - xã Quý II và 6 tháng đầu năm 2025.

  
[1] Trong đó, số vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động trong 6 tháng đầu năm 2025 tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước, đạt 1.957,2 nghìn tỷ đồng (gấp 2,7 lần so với cùng kỳ năm 2024).